Vị vua nào được mệnh danh là 'Vua Quỷ', bạo tàn nhất nhì lịch sử Việt Nam?

( PHUNUTODAY ) - Sự bạo tàn, độc ác của vị vua này đã trở thành nỗi khiếp đảm của rất nhiều người thời đó...

Nhà Hậu Lê (còn gọi là Lê sơ) hưng thịnh nhất dưới thời vua Lê Thánh Tông. Sau khi vua Lê Thánh Tông mất ngày 30/1/1497, Lê Hiến Tông lên ngôi và trị vì 7 năm.

vua

Vua Lê Hiến Tông "thiên tư anh minh thông duệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ thái bình, xứng đáng là bậc vua giỏi giữ cơ đồ", Đại Việt sử ký toàn thư viết. Kế nghiệp vua cha, Lê Hiến Tông mến chuộng văn học, tiết kiệm chi tiêu, thận trọng hình phạt, luôn gần gũi với bề tôi. Vua thường nói "Lê Thái Tổ ta đã gây dựng nên cơ đồ, vua cha ta đã sửa sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo giữ gìn nếp cũ và mở mang sự nhân chính ra cho sáng rõ công đức của ông cha trước".

Sau 7 năm trị vì, vua Lê Hiến Tông mắc bệnh nặng và qua đời vào cuối năm 1504. Con trai thứ ba của ông là Lê Túc Tông lên ngôi nhưng chỉ được 6 tháng thì mất. Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá vua Túc Tông là người "dốc chí hiếu học, thân người hiền, vui việc thiện, xứng đáng là vị vua giỏi giữ cơ nghiệp thái bình".

Vì vua Lê Túc Tông không có con nối dõi nên trước khi mất, ông đã mời các quan triều thần vào để chỉ định người anh thứ hai là Lê Tuấn (còn có tên húy khác là Lê Huyên), tức Lê Uy Mục lên ngôi.

Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua (tức Uy Mục) nghiện rượu, hoang dâm, thích ra oai, tàn hại người tôn thất, giết ngầm tổ mẫu, họ ngoại hoành hành, trăm họ oán giận, điềm loạn đã xuất hiện từ đấy".

vua1

Sau khi lên ngôi, Lê Uy Mục không chăm lo chính sự, hằng đêm đều cùng cung nhân, phi tần uống rượu, say sưa rồi hành lạc vô độ. Khi say sưa xong, Lê Uy Mục sẵn sàng giết luôn cả cung nhân vừa được mình ôm ấp, gần gũi. Triều chính đều rơi vào tay ngoại thích và bọn hoạn quan, cung đình đều bị nhơ nhuốc.

Lê Uy Mục là con của vua Lê Hiến Tông và bà Nguyễn thị.

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, mẹ của Lê Uy Mục là người họ Nguyễn, quê ở xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn (Bắc Ninh ngày nay). Thuở bé, bà mồ côi và nghèo đói, phải tự bán mình cho một gia đình ở phủ Phụng Thiên (Hà Nội ngày nay). Sau, vì gia đình ấy phạm tội, bà cũng bị đẩy vào làm nô tì trong cung, nhân đó được vào hầu Hoàng thái hậu (tức mẹ vua Hiến Tông). Lúc Hiến Tông còn làm thái tử, vào chầu Hoàng thái hậu, trông thấy bà thì lấy làm ưa mới đưa về làm thiếp.

Việc Lê Uy Mục lên ngôi khiến bà thái hoàng thái hậu (tức mẹ vua Lê Hiến Tông, bà nội của Uy Mục) không bằng lòng vì cho rằng mẹ Uy Mục là người thấp hèn thì sinh và nuôi dạy con làm sao tử tế được. Chuyện này đến tai Lê Uy Mục, cho nên vua lấy đó là mối thâm thù.

Ngày 22/3/1505, nhà vua sai người bí mật giết thái hoàng thái hậu, rồi hạ lệnh nghỉ thiết triều 7 ngày, dâng thụy hiệu cho bà tỏ lòng kính trọng. Về việc này, Đại Việt sử ký toàn thư và một số sách sử khác cũng ghi tương tự.

Ngày 5.6, cũng năm ấy, ông giết quan Lễ bộ Thượng thư là Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là Nguyễn Quang Bật. Khi Hiến Tông mất, Văn lễ và Quang Bật không chịu lập ông lên ngôi mà quyết ý lập Túc Tông, ông căm giận lắm. Đến đây, dùng mưu của Khương Chủng, Nguyễn Nhữ Vi mà biến hai người làm Thừa tuyên sứ Quảng Nam.

Khi họ đến sông lớn huyện Chân Phúc, ông sai người đuổi theo bắt phải tự tử. Hai người khi sắp gieo mình xuống nước, ngâm thơ quốc ngữ rồi mới mất. Sau đình thần trong bụng ai cũng biết là hai người chết không đáng tội, can ông, ông đổ tội cho Nhữ Vi rồi giết y.

Uy Mục còn ra lệnh cho giết hết những người Chiêm bị bắt làm gia nô trong các điền trang của các thế gia, công thần.

Vị vua trẻ tuổi dâm loạn chỉ ham rượu chè, gái đẹp, nhiều thú vui man rợ và giết người tàn độc này đã phải nhận một kết cục bi thảm sau 4 năm trị vì.

Trong số các con của Kiến vương Lê Tân bị bắt giam, Giản Tu Công Lê Oanh đút tiền cho người canh ngục mới được ra, trốn về Tây Đô (Thanh Hóa), được một công thần bị đuổi là Nguyễn Văn Lang lập làm minh chủ nổi dậy chống lại Uy Mục đế. Lương Đắc Bằng được lệnh viết hịch kêu gọi bá quan.

Sau đó, Giản Tu Công Oanh nhanh chóng chiếm lại Ðông Kinh (Hà Nội). Bắt được Uy Mục, ông hạ lệnh bắt vua vị vua tàn độc này phải tự tử sau 4 năm tại vị. Khi ấy Uy Mục mới 21 tuổi.

vua4

Một tháng sau đó, tức tháng 12 năm Kỷ Tỵ (1509), tuy Uy Mục đã chết nhưng Giản Tu Công Lê Oanh hận Uy Mục giết hại gia đình mình, chưa nguôi giận, sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, cho nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng ở quê mẹ ông tại làng Phù Chẩn, quê mẹ của Uy Mục, đồng thời giáng làm Mẫn Lệ Công.

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết từ "khi lên ngôi, vua chỉ cùng cung nhân uống rượu vui say quá độ. Khi say, liền giết cung nhân đi. Bấy giờ, quyền bính đều về hết ở bọn ngoại thích. Mặt Đông thì có bọn ngoại thích ở Hoa Lăng. Mặt Nam thì có bọn ngoại thích ở Nhân Mục. Mặt Bắc thì có bọn ngoại thích ở Phù Chẩn. Chúng cậy quyền cậy thế ức hiếp trăm quan, tìm mánh khóe để lấy của báu trong thiên hạ, đã thế lại còn giết hại sinh dân, tước đoạt của cải trong dân gian, trăm họ oán hờn mà vua không biết".

Vua Lê Uy Mục còn thường đem lòng nghi ngờ ghen ghét bầy tôi, kẻ nào trước không chịu phụ họa cho mình (để được lên ngôi) thì bắt giết. Vua lại bí mật sai người trong cung thăm dò hết anh em, chú bác. Bởi thế mà Lê Kiện, chú của vua đã chạy trốn vì sợ hãi, Giản Tu Công Lê Oanh (có tài liệu viết Lê Oánh) là cháu nội của vua Lê Thánh Tông, là con chú con bác với vua bị giam vào ngục.

Do vậy, mọi người ai ai cũng lo nguy hiểm cho tính mạng mình, chỉ rắp tâm nổi loạn.Phó sứ thần Trung Quốc trong một lần sang Đại Việt, trông thấy Uy Mục đã làm thơ gọi Uy Mục là Quỷ vương, đại ý Vận An Nam còn dài bốn trăm năm/ Ý trời sao lại sinh ra vua Quỷ? Từ đó, biệt danh tai tiếng Quỷ vương hay vua Quỷ gắn liền với vua Lê Uy Mục.

Nhân lòng căm phẫn của quan quân, Nguyễn Văn Lang, một đại thần bị thất sủng đã dấy binh chống lại Lê Uy Mục. Một số quan quân trong triều theo Nguyễn Văn Lang, số ở lại sẵn sàng làm nội ứng. Giản Tu Công Lê Oanh, em con chú của Lê Uy Mục bị vua giam trong ngục biết quan quân nổi dậy nên đã tìm cách hối lộ cho lính canh rồi chạy thoát.

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, ông được Nguyễn Văn Lang tôn làm minh chủ. Tháng 11/1509, Lê Oanh khởi binh tiến quân thủy bộ từ thành Tây Đô. Mặc dù mất nhiều tướng, quân khi mới vào trận chiến nhưng Lê Oanh tiếp tục tiến quân vào sát kinh thành. Vua Lê Uy Mục vì cần thêm quân để chống giữ mới đem vàng bạc, tiền của ban cho tội nhân bị giam để sai đi đánh Lê Oanh. Nhưng khi nhận được tiền, ai nấy đều không đánh mà bỏ về nhà.

Vua thấy vậy mới sợ hãi, vội sai người đi gọi quân các xứ Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và An Bang. Mỗi xứ lấy 5.000 lính về bảo vệ cung thành nhưng chúng chưa về đến nơi thì quân của Lê Oanh đã áp sát kinh thành khiến nhiều tên sợ hãi bỏ chạy.

"Bấy giờ, Lê Quảng Độ (tướng trấn thủ trong thành) cùng với Oanh, người trong thành, kẻ ngoại thành, ứng tiếp cho nhau, bắn pháo làm hiệu cho nhau biết", Khâm định Việt sử thông giám cương mục viết.Thấy tình thế bất lợi, vua Lê Uy Mục bỏ chạy đến phường Nhật Chiêu thì bị vệ sĩ đuổi bắt được, đem giao nộp cho Lê Oanh. Uy Mục đã phải uống thuốc độc tự tử.

Như vậy, Lê Oanh là người đã lật đổ vua Quỷ Lê Uy Mục, sau đó lên ngôi vua, hiệu là Lê Tương Dực.

Sau khi bị vệ sĩ bắt được đem nộp cho vua mới Lê Tương Dực, Uy Mục bị giam vào cửa Lệ Cảnh. Nhận thấy đã đường cùng, ngày 1/12/1509, Lê Uy Mục uống thuốc độc tự vẫn chết.

Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, vua Lê Tương Dực căm hận Uy Mục giết hại tàn nhẫn gia đình mình, ông bèn sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng thần công, rồi bắn cho nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại An Lăng ở quê mẹ ông tại làng Phù Chẩn (nay là xã Phù Chẩn, thị xã Từ Sơn, thành phố Bắc Ninh).

Như vậy, Lê Uy Mục ở ngôi được 4 năm, thọ 21 tuổi.

Theo:  giaitri.thoibaovhnt.com.vn copy link